“Khi nào kinh tế ổn định lại?”
1. Nền kinh tế = giao dịch
Tú trồng ngô, Hoàng có tiền. Hoàng mang tiền đổi lấy ngô của Tú gọi là GIAO DỊCH.
Hàng triệu giao dịch như vậy giống Tú và Hoàng ở đủ mọi ngành nghề liên tục diễn ra gọi là NỀN KINH TẾ.
Nền kinh tế có 3 trọng điểm: Tăng trưởng năng suất (productivity growth), nợ ngắn hạn (short term debt cycle) và nợ dài hạn (long…)
2. Tổng chi tiêu trong giao dịch
Nay Hoàng đói, mua 2 bắp ngô nhưng chỉ mang tiền 1 bắp, Hoàng xin Tú mua chịu. Mua chịu (nợ) thì không có tài sản gọi là TÍN DỤNG (Credit)
Như vậy, Tiền + Tín dụng = Tổng chi tiêu = 1 giao dịch.
Công thức về giá trị sản phẩm: Tổng chi tiêu/ Tổng sản lượng = Giá trị (price)
3. Ai tham gia giao dịch
Tú là người bán ngô, Hoàng là người mua ngô (CÁ NHÂN), bán cho Hoàng không có lời, Tú bán cho công ty PLS gần nhà (DOANH NGHIỆP) để họ làm bánh ngô. Có tiền, Tú nộp thuế cho nhà nước (CHÍNH QUYỀN), và gửi tiền vào bank gần nhà (NGÂN HÀNG)
Như vậy rất nhiều bộ phận khác nhau tham gia nền kinh tế, trong đó ngoài người mua và bán (cá nhân hoặc doanh nghiệp) thì có 2 ông cao cấp là:
– CHÍNH QUYỀN: thu thuế + chi tiền điều hành
– NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC: kiểm soát tiền và tín dụng bằng cách TĂNG GIẢM LÃI SUẤT hoặc IN TIỀN
Như này hiểu được 50% về nền kinh tế rồi đó. Đoạn dưới mới nhức đầu đây
4. TÍN DỤNG – NỢ
Hoàng mua nợ ngô Tú thì Hoàng là con nợ, Tú là chủ nợ
Tú quen nên nhờ vay chỗ chị Cathy – giám đốc ngân hàng gần nhà tiền để mua thêm máy cày, Tú là con nợ, ngân hàng là chủ nợ.
Đây là hoạt động tín dụng, cũng là thành phần kinh tế oái oăm nhất, khó hiểu nhất vì nó là lớn nhất và cũng dễ bốc hơi nhất (Mỹ có 3K tỷ $ tiền mặt nhưng có tới 50K tỷ $ tiền tín dụng).
Hiểu đơn giản thì một người mượn tiền, hứa trả lại tiền + lãi suất và người kia tin, đồng ý cho mượn thì hình thành tín dụng. Đây gọi đơn giản hơn nữa là NỢ.
NỢ = tài sản của người cho vay = trách nhiệm pháp lý của người đi vay
Càng uy tín, càng nhiều tài sản thì càng dễ được cấp tín dụng cao (nợ được nhiều hơn)
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nếu lãi suất cho vay cao thì người mượn ít, lãi suất thấp thì người mượn nhiều vì rẻ.
5. CHI TIÊU – THU NHẬP
Hoàng mua ngô của Tú, Tú cầm tiền đó đi mua gạo của a Nam, a Nam lại mua thịt của a X,…cứ như vậy tạo thành nền kinh tế.
Tóm lại: Chi tiêu của người này là thu nhập của người khác. Và chi tiêu thúc đẩy nền kinh tế.
6. CHU KỲ TÍN DỤNG
Hoàng mua nợ ngô của Tú hôm nay thì ngày mai phải trả. Còn thực tế, thu nhập từ việc chăn nuôi của Hoàng không tăng nên hôm nay ăn rồi, thì mai phải nhịn lại. Như vậy tạo ra chu kỳ: 1 ngày ăn tiêu nhiều thì ngày mai Hoàng phải nhịn để trả lại cho Tú.
Kinh tế cũng vậy, tín dụng giúp bạn tiêu nhiều hơn trong hiện tại, mua nhà, mua xe, thực chất là đang tiêu tiền của chính bạn trong tương lai. Sau này bạn phải è cổ ra, thắt lưng buộc bụng để trả lại. Như vậy tạo ra chu kỳ. Tổng hợp toàn thế giới nó tạo ra chu kỳ kinh tế chung
=> TÍN DỤNG tạo ra CHU KỲ KINH TẾ
Tín dụng không xấu, nó giúp phân bổ chính xác các nguồn lực, ví dụ: Tú trồng ngô vay tiền mua xe máy cày để tăng năng suất và dễ dàng trả nợ.
7. CHU KỲ KINH TẾ TĂNG
Tín dụng bình thường sẽ tạo ra chu kỳ đi lên trong nền kinh tế.
Ví dụ:
Tú bán ngô được 100K, Tú được chị Cathy xác nhận tài chính tốt duyệt bank cấp thẻ tín dụng cho tiêu 20K nữa
Thế là Tú qua nhà a Nam mua gạo, Tú mua 120K gạo > A Nam có 120K thì được bank cấp tín dụng cho thêm 50K nữa là tài sản có 170K > A Nam lại đi mua chỗ X và X lại mua chỗ Tú với tiền ngày càng cao và cứ vòng lặp như vậy nhân lên nhiều lần.
=> Nền kinh tế tăng trưởng đi lên (mô hình tự gia cố).
Đây là chu kỳ HƯNG THỊNH của nền kinh tế với nhiều khoản nợ ngắn hạn. Ai cũng giàu, ai cũng vui.
8. LẠM PHÁT
Do X có nhiều tiền, cảm thấy giàu quá, quay lại mua ngô của Tú. Lúc này Tú thấy X giàu nên tăng giá ngô. X cũng đồng ý luôn. Vậy là giá ngô tăng từ 5K lên 10K. Hoàng với a Nam cũng đang giàu nên cũng không ý kiến gì. Vậy là thành lập mặt bằng giá chung. Ngay sau đó, gạo của a Nam, thịt của X lại tăng giá theo, cả thị trường tăng giá.
=> Đây là LẠM PHÁT
Khi lạm phát vừa vừa thì ai cũng vui, tới khi qua mấy vòng tăng giá, tín dụng thúc đẩy chi tiêu, mà tín dụng tạo ra bằng niềm tin nên rất nhanh ngô lên tới 30K/bắp. Mọi người bắt đầu lo lắng do tiền mất giá.
9. ĐIỀU CHỈNH LẠM PHÁT
Đầu tiên thì Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất cho vay tín dụng > lãi cao thì người vay ít dần lại
Vay ít hơn mà nợ vẫn phải trả > chi tiêu ít hơn = BỚT LẠM PHÁT
10. GIẢM PHÁT – CHU KỲ XUỐNG
Do chi tiêu ít mà, nguyên tắc lúc đầu đó là Chi tiêu của người này = thu nhập người kia > ai cũng chi ít lại theo dây chuyền.
Chi ít thì tiền có giá => Giá cả xuống.
Đây là Giảm phát.
Giảm phát = Kinh tế xuống > Suy thoái kinh tế.
11. ĐIỀU CHỈNH GIẢM PHÁT – CHU KỲ MỚI
Nếu suy thoái kinh tế nghiêm trọng, ngân hàng bắt buộc điều chỉnh bằng cách hạ lãi suất cho vay.
Lãi suất giảm > Vay nhiều hơn > Chi tiêu hơn > Kinh tế lại đi lên > Hưng thịnh mới.
Hiểu rất đơn giản: Cho vay tốt = kinh tế đi lên, cho vay không tốt = kinh tế đi xuống.
Chu kỳ này gọi là NỢ NGẮN HẠN và nó kèo dài từ 5-8 năm, lặp đi lặp lại từ trước tới nay, không hề thay đổi, đáy và đỉnh mỗi chu kỳ đều cao hơn (do lạm phát và hành vi con người thích tiêu hơn thích trả nợ) => Nợ nhiều hơn!
12. BONG BÓNG
Nói sâu hơn về hành vi cho vay. Tú lúc đầu có 100k tiền ngô, ngân hàng thấy ổn, mở tín dụng cho 10K là 110K.
Sau đó Tú mua gạo của a.NAm, a.Nam mua thịt của X gây ra lạm phát cũng như thu nhập tăng,… (như đoạn đầu) thì sau vài vòng Tú bán ngô được 300K, Tú mua nhà, mua xe các kiểu.
Chị Cathy ngó sang hàng xóm thấy thấy Tú (dù đang nợ ngập đầu) có tiền quá, mua toàn đồ sang chảnh, lại mở tín dụng cho Tú nhiều hơn. Lần này Tú vay tới 200K và tổng có 500K mua càng nhiều thứ hơn như du thuyền, máy bay và lại càng cho vay nhiều hơn. Như vậy tạo ra các đại gia ảo. (Thấy quen không ạ?)
Đây là tâm lý không đề phòng của tất cả mọi người kể cả ngân hàng. Cứ nghĩ rằng mọi chuyện theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Dần dần, nợ sẽ cao hơn thu nhập thực tế có thể có trong tương lai. Đây là chu kỳ NỢ DÀI HẠN
Như vậy: thu nhập tăng > Giá trị tài sản tăng > mọi thị trường đều tăng bùng nổ > Mua mọi thứ bằng tiền đi vay đều dễ > Lại vay nhiều hơn do nghĩ mình giàu > chu kỳ lặp lại.
13. KHỦNG HOẢNG
Khi đến một thời điểm nào đó, bong bóng tăng tới mức khiến nợ quá nhiều, nợ cao hơn thu nhập bắt đầu mọi người phải vay thêm chỗ khác để trả nợ chỗ này. Lúc này chị Cathy không còn tin Tú nữa nên lệnh cho bank không cho vay nữa > Tú phải bán tài sản.
Đây là CHU KỲ THÁO GỠ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH (còn gọi là Tháo nợ).
Khổ cái là hiện tại ai cũng khổ như Tú, bán tài sản không có ai có tiền mà mua nên giá tài sản sụt giảm nặng nề. => VỠ BONG BÓNG => KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Trong thời điểm này:
– Thu nhập giảm
– Không vay được tín dụng, thậm chí biến mất
– Thất nghiệp
– Tài sản rớt giá nặng nề
– Thị trường chứng khoán lao dốc
– Bank khó khăn
– Nợ ngày càng tăng…
Một vòng luẩn quẩn: Nợ cao > không vay được > mất tín dụng > bán tài sản > không bán được > nợ càng cao > càng không vay được > càng bán không được …
Nhật bị khủng hoảng vào năm 1989
Mỹ chịu sự kiện này nặng nề hai lần vào năm 1929 và 2008, khiến cả thế giới chao đảo.
Châu Âu và hầu hết quốc gia khác vào 2008 chung với đợt 2 của Mỹ.
14. CHU KỲ THÁO GỠ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH
Nặng nề hơn chu kỳ suy thoái kinh tế, suy thoái chỉ cần hạ lãi suất là người vay tăng lên, nhưng ở chu kỳ này, càng vay càng khổ nên không ai vay, tới khi lãi suất cho vay chạm đáy 0% (Mỹ 193x và 2008 lãi suất cho vay tín dụng về 0%) tuy nhiên có hạ về 0% cũng chỉ được một hạn mức nào đó vốn đã thấp trong khủng hoảng nên không thể dẹp được
Nợ khổng lồ > Mất tín dụng > Bank không cho vay > càng nợ nhiều hơn > Mất khả năng thanh khoản > Tê liệt hoàn toàn nền kinh tế!
15. THOÁT KHỎI KHỦNG HOẢNG – XOÁ NỢ – TĂNG PHÁT
Tăng phát (reflation) là dùng các chính sách để ổn định kinh tế, hạn chế ảnh hưởng giảm phát sảy ra sau thời kỳ suy thoái
Vấn đề hiện tại là nợ rất cao, muốn tăng phát tốt (ổn định lại kinh tế mà không gây hậu quả), cần giảm nợ xuống chỉ có 4 cách :
THẮT CHẶT CHI TIÊU
Chỉ giúp ích một phần, kéo dài việc xuống đáy của khủng hoảng do nguyên tắc: chi người này = thu người kia. Ai cũng thắt lưng buộc bụng khiến kinh tế thu hẹp > giảm phát > suy thoái > khủng hoảng.
BÙNG NỢ/TÁI CƠ CẤU
Cũng tương tự cách trên, chỉ có kéo dài thời gian và áp dụng khu vực nhỏ.
PHÂN PHỐI TÀI SẢN GIẢU NGHÈO
Trong thời kỳ tháo gỡ đòn bẩy tài chính, thất nghiệp cao > GDP giảm > thu thuế ít hơn > phải tăng chi cho phúc lợi xã hội (bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ khó khăn, kích cầu kinh tế,..) > THÂM HỤT NGÂN SÁCH (vừa qua).
Như vậy, khi thâm hụt ngân sách, nhà nước có cách: TĂNG THUẾ hoặc ĐI VAY. Hiện tại, tăng thuế không được do tình hình kinh tế, đi vay thì các nước còn lại cũng quá cha nên chỉ còn cách: LẤY CỦA NGƯỜI GIÀU (tăng thuế, điều tra,…) chia cho người nghèo (Phân phối lại của cải)
Tuy vậy, người giàu cũng khó chịu khi bị tăng thuế, làm ăn thì khó khăn dần dần gây ra mâu thuẫn, rối loạn không chỉ trong nước mà còn nước ngoài, đặc biệt quốc gia có mối quan hệ nợ nần.
Nguy hiểm hơn, nó có thể dẫn tới THAY ĐỔI CHÍNH “CHỊ” hoặc gây xung đột (193x hitle nắm quyền cũng do suy thoái ở Mỹ và war Châu Âu)
=> Đây là cách khả thi hiện tại nhiều quốc gia có thể đã áp dụng (như nào thì tự ngẫm xem)
IN THÊM TIỀN
Khi mà ai cũng cần tiền do ai cũng nợ ai thì việc dễ nhất là nhờ Ngân hàng nhà nước in thêm tiền, phát cho mỗi người một ít là xong. Phải không? Không đơn giản vậy đâu.
Khi lãi suất về 0, năm 193x và 2008 ở Mỹ đã in 2000 tỷ đô, 2008 -2012 Anh in ra hơn 300 tỷ đô, Châu Âu in khoảng 1700 tỷ tiền mới và mua tài sản tài chính giúp tài chính dần ổn định.
Nhắc lại về mối quan hệ lúc đầu:
Ngân hàng nhà nước: In tiền
Chính quyền: Chi tiền
Vậy nên Ngân hàng nhà nước cho chính quyền bằng cách mua trái phiếu chính phủ > Chính phủ kích cầu kinh tế, trợ cấp thất nghiệp… (Bơm tiền) > Tiền dân tăng.
Giai đoạn này rất nguy hiểm do tiền dân tăng nhưng nợ công cũng tăng nên phải xem rất kỹ, phải điều tiết cắt giảm đòn bẩy tài chính và lạm phát cho phù hợp. Cân bằng là đẹp nhất coi như thoát khủng hoảng.
Và toàn bộ chu kỳ này có thời gian như sau:
– Suy thoái nặng, khủng hoảng (depression): 2-3 năm
– Tăng phát (reflation): 7-10 năm
16. IN THÊM TIỀN CÓ GÂY LẠM PHÁT CAO?
Nhìn zimbabwe từ 2000 là một thất bại trong việc in tiền để cứu nền nông nghiệp của họ đấy. Hoặc Đức 192x cũng bị khủng hoảng do in tiền vô tổ chức.
Vậy nên mới nói cần phải rất cẩn thận trong việc in tiền. In tiền không gây ảnh hưởng kinh tế nếu:
– In tiền chỉ để bù vào tín dụng giảm thì không sao
– Có chính sách kích cầu kinh tế sao cho thu nhập tăng nhanh hơn số tăng của nợ.
17. KẾT LUẬN
Thường thì chu kỳ khủng hoảng sẽ kéo dài từ 2-3 năm, sau đó sẽ có 7-10 năm phục hồi từ từ (Thật kỷ mất mát Lost decade) chúng ta phải nắm rõ những nguyên tắc sau để không bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng:
– Nắm rõ chu kỳ, phán đoán chu kỳ
– Đừng để Nợ > Thu nhập
– Thu nhập > Năng suất (giá trị tạo ra)
– Tăng giá trị bản thân mọi lúc.